Đến với Côn Đảo là đến với những trang sử hào hùng của vùng đất này thông qua các di tích lịch sử còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Hệ thống nhà tù Côn Đảo – nơi đã giam cầm và đày ải gần 2000 chiến sĩ cách mạng kiên trung. Ngày nay, Côn Đảo là một khu di tích lịch sử cách mạng – điểm đến không chỉ của người dân Việt Nam mà của cả nhiều du khách nước ngoài.
Nhà tù Côn Đảo nằm ngoài vùng biển thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, được Thống đốc Nam kỳ Bonard ký quyết định thành lập ngày 1/2/1862, gồm hệ thống nhà tù ở Côn Đảo và các nghĩa trang thuộc hệ thống nhà tù này. Trong lịch sử, chính quyền thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã cho xây dựng 127 phòng giam, 42 xà lim và 504 phòng giam biệt lập – “chuồng cọp” tại khu vực Côn Đảo. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất (1975), chức năng của hệ thống nhà tù ở Côn Đảo bị giải thể.
1. Trại 1: Còn gọi các tên: Banh III, Lao III, trại Bác Ái, trại Phú Thọ. Trại 1 được xây dựng năm 1928, với tổng diện tích 12.700m2 trong đó diện tích phòng giam là 1.200m2. Thời Pháp gồm có 3 dãy phòng giam, trong đó có 2 dãy phòng giam tập thể và 1 dãy biệt lập, 1 khu nhà bếp, 1 khu bệnh xá. Sau Cách mạng tháng 8-1945 trại giam này được chỉnh trang lại còn 2 dãy phòng giam (từ phòng 1-8). Thời Mỹ – Ngụy, xây thêm 2 phòng 9 và 10 phía sau bệnh xá. Đặc biệt phòng 10, Mỹ – Ngụy dùng làm khu biệt lập để bổ sung cho khu chuồng cọp nên được ngăn ra 15 khu biệt giam. Người tù bị giam ở đây đã đặt cho nó một biệt danh là: “Biệt lập chuồng gà”.
Di tích trại Phú Thọ đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra Quyết định số 54-VHQĐ đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra Quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
2. Trại 2: Còn được biết đến qua các tên Banh I, lao I, trại Cộng Hòa và sau cùng được gọi là trại Phú Hải (11/1974). Trại 2 được xây dựng năm 1862 và chỉnh trang lại kiên cố năm 1896 với tổng diện tích 12.015m2, trong đó diện tích phòng giam 2.915m2, nhà phụ thuộc 1.531m2; khoảng trống, cây xanh 7.569m2, bao bọc bởi bốn bức tường cao hơn 4m, xung quanh bố trí nhiều bốt gác. Trại 2 bao gồm 10 phòng giam tập thể, 01 phòng giam đặc biệt, 20 xà lim (hầm đá), 01 hầm xay lúa (thời Mỹ ngụy chuyển thành bệnh xá), 01 khu đập đá. Ngoài ra còn có các công trình phụ như: Câu lạc bộ, phòng hớt tóc, nhà bếp, nhà ăn, giảng đường, nhà nguyện, phòng trật tự, nhà kho, văn phòng giám thị và sân vườn. Đây là trại giam lớn và cổ nhất ở Côn Đảo, nơi đây mang đậm dấu tích của các thời kỳ lịch sử.
Di tích trại Phú Hải đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra Quyết định số 54-VHQĐ đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra Quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
3. Trại 3: Còn gọi các tên: Banh II, Lao II, Trại Nhân Vị, Trại Phú Sơn. Trại được xây dựng năm 1916, nằm cạnh Banh I với tổng diện tích 13.228m2 trong đó diện tích phòng giam 2.414m2, nhà phụ thuộc 854m2, khoảng trống, cây xanh 9.960m2. Banh II bao gồm 13 phòng giam tập thể, 01 khu biệt lập có 14 xà lim, 01 phòng tối. Ngoài ra còn có các công trình phụ như: Phòng y tế, nhà ăn, nhà bếp, câu lạc bộ, phòng hớt tóc, phòng trật tự, văn phòng giám thị và sân vườn.
Banh II xây dựng đồ sộ và kiên cố hơn, có lối đi bên trên để trật tự cai ngục đi kiểm tra người tù. Một lần vào đêm khuya tù nhân đã tìm cách vật tên cai ngục xuống chết tại chỗ, từ đó địch khiếp sợ không sử dụng lối đi này nữa.
Di tích trại Phú Sơn đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra Quyết định số 54-VHQĐ đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra Quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
4. Trại 4: Còn gọi là Banh III phụ, Lao III phụ, trại Phu Bác Ái, trại Phú Tường. Xây dựng năm 1941 với tổng diện tích 5.804m2, trong đó diện tích phòng giam là 962m2, nhà phụ thuộc: 152m2, khoảng trống: 4.690m2. Bao gồm 08 phòng giam tập thể (chia làm 2 dãy, mỗi dãy 4 phòng); công trình phụ: nhà bếp, nhà kho, bệnh xá và sân vườn.
Banh III xây dựng cùng thời gian với Banh III phụ và trại 5 (từ 1940-1962) tạo thành một cụm bao quanh che giấu cho khu biệt lập “Chuồng cọp Pháp”.
Di tích trại Phú Tường đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
5. Chuồng Cọp Pháp: Xây dựng năm 1940 với tổng diện tích là 5.475m2 trong đó diện tích phòng giam là 1.408m2, phòng tắm nắng: 1.873m2, khoảng trống: 2.194m2. Bao gồm: 120 phòng biệt giam (chia làm 2 khu, mỗi khu 60 phòng).
- Phòng giam có mái che được xây dựng với diện tích nhỏ, rộng 1,45 m, dài 2,5 m (khoảng 3,6 m2), bên trên có song sắt kiên cố và có hành lang ở giữa dành cho cai ngục, trật tự đi lại kiểm soát, hành hạ người tù. Toàn bộ tù nhân đều bị xiềng xích, ăn, ở, vệ sinh trong buồng giam. Ngoài việc bị tra tấn, tù nhân còn bị bỏ đói. Hầu hết tù nhân bị đưa vào chuồng cọp thì cái chết coi như cận kề. Những ai có ý định hay hành động phản kháng, chúng sẽ dùng gậy và tra tấn từ bên trên. Trên trần mỗi buồng giam còn để thùng nước và thùng vôi bột. Khi tù nhân khát cai ngục sẽ đổ ào nước xuống và rắc vôi xuống mịt mù là hình phạt dành cho những ai có dấu hiệu phản đối.
- Phòng không có mái che được gọi là “Phòng tắm nắng” (chia làm 4 dãy, mỗi dãy 15 phòng). Phòng tắm nắng còn là nơi để dùng hành hạ, phơi nắng, phơi mưa người tù hoặc là lôi người tù ra đó để đánh đập, tra tấn.
Trại giam được Pháp ngụy trang kín đáo sâu trong trại giam Phú Tường với hai lối ra vào. Hệ thống Chuồng cọp và trại giam chỉ ngăn cách bằng cánh cửa nhỏ bị khóa, ngụy trang như cánh cửa đã không dùng lâu ngày. Ngoài những cai ngục, không ai được biết về bí mật nơi biệt giam này. Tù nhân chính trị được đưa vào đây khi bị tra tấn đến ngất, rồi được đưa vào bằng cửa khác để đánh lạc hướng… Tất cả tù nhân đều không xác định được vị trí trại giam, vì vậy khả năng trốn thoát là không thể…Khu biệt giam này bị giấu kín hoàn toàn và đến năm 1970, khi được phát hiện và phơi bày đã gây chấn động và bàng hoàng với dư luận quốc tế.
Di tích “chuồng Cọp Pháp” đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
6. Trại 5: Còn gọi là trại Phú Phong được xây dựng năm 1962 với tổng diện tích: 3.594m2 trong đó diện tích phòng giam 1.400m2, bao gồm 12 phòng giam tập thể chia làm 3 dãy (mỗi dãy 4 phòng) và một khu nhà bếp..Trại Phú Phong che chắn phía trước khu Chuồng Cọp Pháp.
Di tích trại Phú Phong đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia
7. Trại 6: Còn gọi là trại Phú An, xây dựng năm 1968 với tổng diện tích: 42.140m2 trong đó: Diện tích phòng giam 2.556m2, nhà phụ thuộc: 696m2, nhà ở: 27m2, khoảng trống: 38.861m2. Trại bao gồm 20 phòng giam và 8 xà lim được chia làm 2 khu A và B, (mỗi khu có 10 phòng giam và 4 xà lim). Ngoài ra còn có nhà bếp, nhà ăn, nhà trật tự.
Di tích trại Phú An đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
8. Trại 7: Còn gọi là trại Phú Bình hay “Chuồng cọp kiểu Mỹ”. Trại được xây dựng năm 1971 với tổng diện tích: 25.741m2, trong đó: diện tích phòng giam 2.562m2, nhà phụ thuộc: 637m2, nhà ở: 173m2, khoảng trống: 22.369m2. Trại bao gồm: 384 phòng biệt giam chia ra làm 4 khu: AB – CD – EF- GH. Mỗi khu có 2 dãy, mỗi dãy 48 phòng, nhà kho, nhà bếp, văn phòng giám thị, bệnh xá. Quanh trại được bao bọc bởi hàng rào dây thép gai và tường bê tông. Toàn bộ bên trên xà lim có chấn song sắt hàn dính vào nhau và được chôn hẳn vào tường. Mái xà lim lợp tôle xi măng.
Đây là kiểu nhà giam đặc biệt bằng bê tông, không có bệ nằm, người tù phải nằm dưới nền xi măng ẩm thấp. Phía trên của mỗi buồng giam đều có song sắt tương tự như Chuồng cọp Pháp nhưng không có hành lang bên trên. Thay vào đó là mái tôn thấp, trời nắng hắt xuống như thiêu như đốt. Trong phòng giam không có bệ, tù nhân nằm dưới nền nhà hứng chịu khí ẩm ướt, khí đất xông lên khi chuyểnvề khuya. Tù nhân phải tiểu tiện vào thùng gỗ, mỗi khi tù nhân đấu tranh sẽ bị phạt không cho đổ thùng vệ sinh ba ngày, năm ngày hay kéo dài hàng tuần lễ hoặc lâu hơn nữa…Phân và nước tiểu bê bết trên mình của 8 đến 10 người tù trong một phòng biệt giam khoảng 5m2.
Di tích trại Phú Bình đã được Bộ Văn Hóa – Thông Tin ra Quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra Quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
9. Trại 8: Còn gọi là trại Phú Hưng đây là một trong bốn trại giam do Mỹ ngụy xây dựng từ cuối năm 1968 và hoàn thành năm 1972 với tổng diện tích: 26.200m2. Trại bao gồm: 20 phòng giam và 8 xà lim, chia ra làm 2 khu, mỗi khu 10 phòng và 4 xà lim, cùng các công trình phụ, như nhà Giám thị, vọng gác. Bao quanh trại là hệ thống hàng rào dây thép gai. . Nhưng đang xây dựng thì Hiệp định Paris được ký kết nên khu trại giam chỉ hòan thành có 10 phòng giam, còn 10 phòng và 8 xà lim bỏ dở.
Di tích trại Phú Hưng đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia
10. Trại 9: Khi Mỹ – ngụy đang cho đổ bê tông nền, đúc cột dựng trại, thì Hiệp định Paris ký kết nên trại này đã bị bỏ dở.
Di tích trại 9 đã được thủ tướng chính phủ ký quyết định số 548/QĐ-TTg công nhận là Di tích Quốc gia Đặc biệt ngày 10/5/2012.
11. Khu biệt lập Chuồng Bò: Được hình thành năm 1876 nhằm mục đích phục vụ nhu cầu nuôi bò cung cấp thực phẩm cho bộ máy cai trị tù. Nơi đây còn là cơ sở nuôi dê, ngựa, heo, gà, vịt, bồ câu; có lúc nơi đây kiêm luôn làm rẫy, đốn củi với tên gọi kép Sở Rẫy – Chuồng Bò, Sở Củi – Chuồng Bò. Ban đầu khu chuồng bò gồm 2 chuồng nhốt bò, một hầm chứa phân bò. Hầm phân bò sau 3m chia 2 ngăn có hệ thống cống dẫn ngầm từ chuồng nuôi bò sang. Bên cạnh đó còn có thêm 24 hộc chứa heo.
Đến năm 1930, thực dân Pháp cho xây dựng thêm 9 phòng giam, sử dụng chuồng bò như một trại giam các tù nhân nữ. Ngoài ra còn sử dụng hầm phân bò này để ngâm người tù như một biện pháp tra tấn hành hạ. Sang thời Việt Nam Cộng hòa, khu chuồng bò, còn được gọi là trại An Ninh Chuồng Bò, trực thuộc Trại 4, vẫn với công năng như trước. Năm 1963, Chuồng Bò được gấp rút sửa chữa, cải tạo các 24 hộc chứa heo và xây dựng lại thành 3 khu nhà biệt giam A, B, C với 33 phòng biệt giam. Từ năm 1973, Chuồng Bò là văn phòng của tiểu Ban điều tra khai thác thuộc Ban chuyên môn với tổng diện tích: 4.110m2 trong đó: diện tích phòng giam: 547m2, chuồng trại: 270m2, khoảng trống: 3.293m2.
Di tích Khu biệt lập Chuồng Bò đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
Nằm ngay Khu Chuồng bò là nghĩa địa của tù nhân: “Bãi sọ người” – đây chính là nghĩa địa đầu tiên ở Nhà tù Côn Đảo, tiếp đến là nghĩa địa Hàng Keo, nghĩa địa Hàng Dương. Nơi đây đã chứng kiến cuộc tàn sát tù nhân đẫm máu nhất. Chuyện kể rằng, đêm 28-6-1862, lớp người tù đầu tiên bị Pháp đày ra Côn Đảo đã liên kết với quan binh người Việt trên đảo tổ chức nổi dậy. Họ đốt phá công sở, thiêu cháy nhà tù và buộc tên chúa đảo Felix Roussel phải lên thuyền chạy trốn. Sau khi làm chủ hòn đảo, số nghĩa binh này không tìm được tàu để về đất liền. Nửa tháng sau, thực dân Pháp quay trở lại đánh chiếm đảo và tiến hành truy quét những người nổi dậy. Trong chiến dịch truy lùng, đã có hơn 100 người bị giặc Pháp giết và 20 người bị bắt sống. Ngày 25-7-1862, quân Pháp bắt 20 người đào một hố to chôn hơn 100 xác người bị chúng giết. Khi lấp xong ngôi mộ tập thể đó, chúng đem chôn sống 20 người kia.
12. Các Sở tù
Dựa theo các tài liệu, tính đến khoảng 1930 có ít nhất 18 sở tù đã đi vào hoạt động, đó là: Sở Lưới, Sở Ruộng, Sở Làm Đá, Sở Kéo Cây, Sở Chuồng Bò, Sở Lò Gạch, Sở Lò Vôi, Sở Muối, Sở Bãn Chế, Sở Tiêu, Sở Rẫy An Hải, Sở Cỏ Ống, Sở Hòa Ni, Sở Bông Hồng (sở Bông Hường), Sở Rẫy Ông Lớn, Sở Ông Đụng, Sở Vệ Sinh, Sở Đất Dốc.
Các sở này lần lượt xuất hiện trước sau không đồng loạt, nhằm 2 mục đích: Phục vụ toàn diện các mặt đời sống cho bộ máy hành chánh của địch và cho đời sống của người tù trên đảo; Cải tạo người tù bằng lao động khổ sai.
- Sở Lò Vôi xây dựng từ năm 1864, chuyên nung san hô cung cấp cho toàn đảo, ở đây có 4-5 kíp tù trông coi việc đốt lò chủ yếu, lao động khổ sai ở đây chia làm hai kíp: Một kíp thường xuyên bám biển lặn san hô, mỗi tháng phải có 4 sà lan san hô, một kíp 12 người chuyên đưa san hô vào đốt lò nung thành vôi xây dựng nhà cửa, cầu đường. Nơi đây được xem như một bản cáo trạng về chính sách khai thác sức lao động của tù nhân.
- Di tích Sở Lò vôi đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra Quyết định số 54-VHQĐ đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra Quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
- Sở Muối là nơi các tù nhân bị đưa đi lao động khổ sai với công việc làm ruộng muối ở làng An Hải. Trong cuộc đấu tranh đồng khởi tháng 8/1970 các tù nhân Côn Đảo. Lực lượng tù bại liệt ở Sở Muối trực diện đưa yêu sách chống khô đắng, đòi cấp rau xanh 3 ngày 1 lần, phát quần áo. Sau 03 ngày địch không giải quyết anh em đã lết ra đường căng biểu ngữ, hô khẩu hiệu đấu tranh. Địch đã đàn áp làm 15 người bị thương nặng.
- Sở Rẫy nằm trên đảo lớn Côn Sơn, có độ cao 260m so với mực nước biển. Từ Trung tâm Vườn du khách đi theo con đường ven núi đến Vùng 3, sau đó tiếp tục leo núi theo đường mòn nhỏ để đến Sở Rẫy. Sở Rẫy là khu vực bằng phẳng, có diện tích khoảng 20 ha được hình thành từ thời Thực Dân Pháp để đày ải tù nhân khai hoang, trồng trọt hoa màu vào những năm đầu thế kỷ 20. Sau khi hòa bình lặp lại, đến năm 2002 Sở Rẫy được phục hồi và địa danh lịch sử này đã trở thành trung tâm sinh thái bảo tồn nguồn gen quý, hiếm.
13. Khu nhà Chúa đảo
Tổng diện tích 18.600m2 trong đó nhà chính và phụ 1.250m2, sân vườn 17.000m2. Đây là nơi ở và làm việc của 53 đời chúa đảo (39 tên người Pháp, 14 tên người Việt Nam) trải qua 113 năm (1862-1975). Đây là đầu não trung tâm của hệ thống nhà tù, tất cả bộ máy cai trị tù trên đảo đều dưới quyền điều khiển của Chúa đảo.
Di tích còn thể hiện cuộc sống xa hoa của địch bên cạnh cuộc sống nghèo nàn, hà khắc của tù nhân. Khuôn viên nhà chúa đảo trước đây được gọi là Sở rẫy Ông Lớn, thường xuyên có hàng chục tù nhân bị bắt lao động khổ sai phục vụ cho cuộc sống đế vương của các tên chúa đảo. Di tích là nơi ghi dấu sự kiện thành lập chính quyền cách mạng đầu tiên ở Côn Đảo năm 1945 và năm 1975. Từ sau ngày giải phóng đến nay, nhà Chúa đảo được dùng làm nơi trưng bày lưu niệm của khu di tích Côn Đảo.
Di tích Dinh chúa đảo đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
14. Nhà Công quán
Nhà Công quán là ngôi nhà khách do Pháp xây dựng từ cuối thế kỉ 19 nằm trong quần thể của dinh thự Chúa đảo. Diện tích 150 m2. Sang thời Mỹ ngụy, gọi là nhà Công quán hay Câu lạc bộ, cũng là nơi dừng chân của các lữ khách khi đến đây thi hành công vụ.
Tại ngôi nhà này, nhà soạn nhạc vĩ đại Camille Saint-Saeens đã từng sống từ ngày 20-3 đến 19-4-1895. Tại đây ông đã hoàn thành vở nhạc kịch BRUNEHILDA. Đó là dấu tích của một nhà soạn nhạc lớn của nước Pháp có chân trong viện Hàn Lâm ở Pa-Ri đã đến thăm Côn Đảo.
Hiện nay ngôi nhà này được trùng tu trong quần thể của dinh Chúa đảo. Có lẽ đây cũng là dấu ấn văn minh nhất của nước Pháp còn lưu lại tại hòn đảo ngục tù ngày ấy.
Di tích nhà Công Quán đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
15. Cầu Ma Thiên Lãnh
Cầu Ma Thiên Lãnh nằm trên một đỉnh núi phía Tây thị trấn Côn Đảo. Đi qua Khu vườn quốc gia khoảng 3km tới một con đường nhỏ, cây cối hai bên mọc um tùm, leo hết con dốc thì tới di tích cầu Ma Thiên Lãnh. Cầu do người Pháp bắt các tù nhân xây dựng trên núi cao để vượt sang phía bên kia núi.
Cầu Ma Thiên Lãnh xây dựng năm 1930. Thực dân Pháp mở con đường từ ngã ba Núi Chúa qua Bãi Ông Đụng nhằm khai thác cây gỗ, đá phục vụ công việc xây dựng trại giam, các công sở… và lập nên những trạm kiểm soát đề phòng tù nhân vượt ngục.
Tù nhân làm khổ sai ở đây, do địa thế cheo leo hiểm trở, ăn uống thiếu thốn đói khát, nước suối lại rất độc, bị đá đè cây đổ, lao dịch nặng nhọc quá sức, cai ngục trật tự đánh đập, hối thúc, người tù bị chết hại đến 356 người mà cầu chỉ mới xây xong 2 mố cầu, mỗi mố cao khoảng 8m. Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, công trình này bỏ dở dang. Cái tên Ma Thiên Lãnh để gọi cho 2 mố cầu xây dang dở bằng máu xương của hàng trăm tù nhân. Từ đó người tù mới lấy tên ngọn núi Ma Thiên Lãnh ở Triều Tiên với địa thế hiểm ác, khó lên xuống, phỏng theo truyện Tàu “Tiết Nhân Quý Chinh Đông” đặt tên cho cây cầu này.
Di tích Cầu Ma Thiên lãnh đã được, Bộ Văn hóa – Thông Tin đã ra Quyết định số 54-VHQĐ đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra Quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích đặc biệt Quốc gia.
16. Cầu tàu 914 lịch sử
Cầu tàu nằm tại trung tâm bãi biển chính của thị trấn Côn Đảo. Cầu tàu được khởi công xây dựng từ năm 1873, với phác thảo dài 107m, bắt đầu từ mép lộ trước cổng Dinh Chúa đảo vươn ra vịnh Côn Sơn. Qua nhiều thời kỳ sửa chữa và mở rộng kéo dài hàng chục năm, ngày nay cầu tàu 914 dài hơn 300m, chiều rộng gần 5m, ở cuối cầu tàu có đoạn rộng gần 8m.
Đây là nơi chứng kiến nỗi cực nhục đầu tiên của những người bị đưa ra đảo tù đày, nhiều người chỉ qua cầu một lần rồi vĩnh viễn yên nghĩ tại Côn Đảo. Nhưng cầu tàu cũng là chứng kiến những giờ phút vinh quang xúc động mỗi dịp đảo được giải phóng. Con số 914 được đặt tên cho cầu là do người tù nhẩm tính số người tù ngã xuống vì núi lở, đá đè, kiệt sức, chết vì đòn roi khi chuyển đá, khi làm cầu tàu và kè đá dọc con đường ven biển. Có nhiều tài liệu nêu danh cầu tàu có số khác nhau: 871, 917 nhưng được nhiều người biết phổ biến nhất với danh số 914.
Di tích Cầu Tàu 914 lịch sử đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia
17. Nghĩa trang Hàng Dương
Đây là nghĩa trang lớn nhất tại Côn Đảo, có diện tích khoảng 20 ha, là nơi yên nghỉ của hàng vạn chiến sĩ cách mạng và những người yêu nước Việt Nam qua nhiều thế hệ bị tù đày kéo dài 113 năm (từ 1862 đến 1975). Nghĩa trang Hàng Dương Côn Đảo là một di tích có giá trị tố cáo chế độ thực dân, đế quốc đồng thời giáo dục truyền thống cho các thế hệ.
Nghĩa trang Hàng Dương Côn Đảo được khởi công xây dựng và tôn tạo ngày 19/12/1992 chia làm 4 khu:
Khu A: Gồm 688 ngôi mộ (có 7 mộ tập thể) trong đó 91 mộ có tên và 597 mộ khuyết danh. Đa số là các phần mộ từ năm 1945 về trước. Nơi đây có ngôi mộ của liệt sĩ cách mạng Lê Hồng Phong và nhà yêu nước Nguyễn An Ninh.
Khu B: Gồm 695 ngôi mộ (có 17 mộ tập thể) trong đó 276 mộ có tên và 419 mộ khuyết danh. Đa số là các phần mộ từ năm 1945 đến 1960. Nơi đây có mộ của nữ anh hùng Võ Thị Sáu và anh hùng Cao Văn Ngọc.
Khu C: Gồm 373 ngôi mộ (có 1 mộ tập thể) trong đó 332 mộ có tên và 41 mộ khuyết danh. Đa số là các phần mộ từ năm 1960 đến 1975. Nơi đây có ngôi mộ của anh hùng Lê Văn Việt.
Khu D: Gồm 157 ngôi mộ, trong đó 14 mộ có tên và 143 mộ khuyết danh. Đặc biệt Khu D là khu mộ qui tập những nấm mộ từ Hòn Cau và Hàng Keo về.
Di tích Nghĩa trang Hàng Dương đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
18. Nghĩa trang Hàng Keo
Nằm trên đường Nguyễn Văn Cừ, du khách đến tham quan và thắp nén hương nơi nghĩa trang Hàng Keo. Nghĩa trang có diện tích 80.000m2 , đây là nơi vùi chôn khoảng 10.000 tù nhân bị thực dân Pháp giết hại tại nhà tù Côn Đảo từ đầu thế kỷ XX cho đến giai đoạn khủng bố trắng 1940-1941. Câu nói “ đi Hàng Keo” là lối nói của người tù khi tiễn bạn về nơi an nghỉ còn lưu truyền mãi cho tới ngày nay câu thơ ai oán:
“ Côn Lôn đi dễ khó về
Sống nương núi Chúa, thác về hàng Keo”.
Năm 1997, các phần mộ tìm thấy ở đây đã được cải táng di dời về khu D – Nghĩa trang Hàng Dương Côn Đảo. Hiện nay chỉ còn lại rừng cây tự nhiên và những hài cốt của tù nhân còn nằm dưới lòng đất không còn dấu vết. Khu vực nghĩa trang Hàng Keo xưa, nay đã được Nhà nước lập bia tưởng niệm tại Di tích.
Di tích nghĩa trang Hàng Keo đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
18. Sở Cò
Di tích Sở Cò do thực dân Pháp xây dựng từ năm 1929, nhằm phục vụ cho bộ máy cai trị tù, Bước sang giai đọan đế quốc Mỹ, ngôi nhà này là trụ sở Quân cảnh. Đặc biệt, Sở Cò là nơi lưu lại những giờ phút cuối đời của nữ tù chính trị đầu tiên và duy nhất thời thực dân Pháp đó là Võ Thị Sáu. Khi đưa ra pháp trường tại Côn Đảo, đang cận kề với cái chết nhưng chị vẫn giữ vững khí phách của người Cộng sản, lạc quan tin tưởng vào sự thắng lợi của cách mạng. Gương kiên trung bất khuất của chị đã trở thành niềm tự hào của tuổi trẻ cả nước khi nhắc đến tên chị.
Hiện nay, di tích Sở Cò được trùng tu, tôn tạo và sử dụng làm phòng trưng bày lưu niệm Nữ Anh hùng Võ Thị Sáu.
Di tích Sở Cò đã được, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ra Quyết định số:1443/QĐ-UB xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
19. Khu điều tra
Khu điều tra xây dựng theo lối kiến trúc kiểu phương tây. Thực dân Pháp sử dụng làm nhà ở. Sang thời Mỹ năm 1960 sử dụng làm khu điều tra, gồm 3 dãy nhà:
– Dãy nhà A còn gọi là phòng thường trực
– Dãy nhà B còn gọi là phòng hồ sơ lưu trữ
– Dãy nhà C còn gọi là phòng lấy cung và tra tấn. Ngoài ra còn có phòng biệt giam và nhà vệ sinh.
Khu điều tra là 1 bộ phận làm việc và lưu trữ hồ sơ hỏi cung. Tù nhân trước khi bị đưa vào một trại giam nào, sẽ được đưa vào đây để hỏi cung. Tùy theo mức độ nguy hiểm của người tù mà chuyển vào từng trại. Cũng có trường hợp tù nhân ở các trại bị tình nghi có chuẩn bị bạo động hoặc có những hành động chóng lại cai ngục, bị chúng để ý cũng đưa về đây lấy cung. Nếu tù nhân nào tỏ ra ngoan cố thì bị bọn hỏi cung đánh đập và cho vào phòng biệt giam tạm thời.
Từ năm 1966 – 1970, khu điều tra thu hẹp lại thành Ban sưu tra.
Di tích Khu điều tra đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.
(Nguồn: tổng hợp)